Hiện
nay, Nghệ An có khoảng 171.421 ha rừng trồng
các loài cây như keo, bạch đàn, mét, quế… trong đó có gần hơn 16.170 ha rừng cây
thông nhựa (Pinus merkusii) thuần
loài và hỗn giao. Rừng thông Nghệ An có tác dụng to lớn trong việc phòng hộ, bảo
vệ môi trường sinh thái cho cả khu vực các huyện đồng bằng, trung du núi thấp (Quỳnh Lưu, Đô Lương, Yên Thành, Thanh
Chương, Diễn Châu, Nam Đàn, Nghi Lộc…). Ngoài ra, hàng năm rừng thông nhựa
còn cung cấp hàng ngàn tấn nhựa thông phục vụ cho xuất khẩu, tạo công ăn việc
làm cho hàng chục ngàn công nhân lao động và người dân sống ở gần rừng. Tuy
nhiên, một vấn đề đối với rừng thông là có nhiều loại dịch hại tấn công như sâu
róm hại thông, ong ăn lá thông, bệnh khô xám lá thông… trong đó sâu róm hại
thông (sâu róm thông) là loài nguy hiểm
nhất.
Theo
báo cáo của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, tính đến ngày 15/8/2024, trên
địa bàn một số huyện Nghi Lộc, Yên Thành, Đô lương, Diễn Châu… có 1.579,64 ha rừng
thông bị nhiễm sâu róm thông (Dendrolimus
punctatus) mức độ nhiễm sâu từ nhẹ đến trung bình, riêng tại địa bàn rừng
thông một số xã Nghi Yên, Nghi Xá, Nghi Tiến, Nghi Quang của huyện Nghi Lộc hiện
có 750 ha rừng bị nhiễm sâu với mật độ từ 150 - 400 con/cây, mức độ gây hại từ nhẹ
đến trung bình, một số khu rừng bị sâu róm thông bị gây hại nặng, chúng ăn xơ
xác gây trụi hết tán lá, nhìn từ xa tưởng như rừng thông bị cháy do hỏa hoạn, ảnh
hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cây thông, làm xấu cảnh quan môi trường,
làm giảm chất lượng, sản lượng nhựa thông, ảnh hưởng đến đời sống sản xuất của
người dân.
Ảnh 1: Rừng thông tại đồi 200, khoản 1, tiểu
khu 960 thuộc xã Nghi Quang, huyện Nghi Lộc bị sâu róm thông gây hại nặng ăn trụi
hết tán lá (giống như rừng bị thông bị cháy)
Tại Nghệ
An, sâu róm thông thường có từ 4 - 5 lứa/năm, trước đây theo quy luật tự nhiên
thì dịch sâu róm thông thường 8 -10 vòng đời (lứa sâu) sẽ xuất hiện một đợt dịch.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do biến đổi khí hậu, cộng với một số chủ rừng
tổ chức phòng trừ còn hạn chế, một số nơi sử dụng thuốc hóa học để phòng trừ gây
phá vỡ cân bằng sinh thái, làm cho dịch sâu róm thông biến đổi bất thường.
Ảnh 2. Sâu róm thông đang ăn lá thông
Để chủ
động phòng trừ sâu róm thông có hiệu quả, vấn đặt ra trước tiên phải là công
tác điều tra, dự tính, dự báo phải kịp thời, chính xác. Có nhiều phương pháp điều
tra để dự tính, dự báo như thiết lập hệ thống các ô tiêu chuẩn định vị, điều
tra ngẫu nhiên, điều tra thực địa đo đếm số lượng sâu róm thông trên một cây, điều
tra bằng ô hứng phân, điều ra bằng bẫy đèn, điều tra các ổ trứng sâu…
Một vấn
đề thực tiễn đặt ra là trong một khu rừng thông, thường có các vùng tiểu khí hậu
khác nhau, một số vùng có tiểu khí hậu rất thuận lợi cho sâu róm thông phát
sinh, phát triển mạnh, những điểm này thường phát sinh các ổ dịch hại (ổ sinh thái) rồi từ đó nhân rộng, phát
tán dần lan ra các khu vực khác. Tại Nghệ An, một số khu rừng thông ổ dịch thường
phát sinh ở những khu vực có địa hình núi cao, khuất gió, hướng phơi địa hình
thường nằm hướng Nam hoặc Đông Nam. Vì vậy, trong công tác điều tra phải nắm chắc
các ổ sinh thái hay phát sinh dịch hại này để phát hiện sớm, xử lý, khoanh vùng
bao vây, tổ chức phòng trừ các ổ dịch trước khi chúng lây lan, phát sinh dịch hại
trên diện rộng.
Ảnh 3. Phân của sâu róm thông
Trong
công tác phòng trừ sâu róm thông, thường sử dụng các biện pháp tổng hợp để
phòng trừ, có thể phòng trừ bằng sinh học, vật lý, hóa học, thủ công… trong mỗi
phương pháp đều có ưu và nhược điểm. Tuy nhiên, theo xu thế phát triển của các
quốc gia trên thế giới là sử dụng phương pháp sinh học để phòng trừ sâu bệnh hại
nói chung và râu róm thông nói riêng để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ hệ
sinh thái. Ngày nay nhiều chế phẩm sinh học phòng trừ sâu róm thông rất có hiệu
quả như Bôvêrin (Beauveria bassianan),
VT (Bacillus thuringiensis), VBTusa,
Delfin 32WG, Bitadin WP…
Ảnh 4. Sâu róm thông vào kén làm tổ
Thời
gian trước đây, tại các khu rừng thông trong tỉnh, định kỳ hàng năm các chủ rừng
sử dụng chế phẩm Bôvêrin để phun phòng trên một diện tích nhất định, khi mật độ
sâu hại thấp dưới 75 con/cây. Vì vậy đã ngăn chặn được sự phát sinh, phát triển
của sâu róm thông gây hại trên diện rộng, giúp cân bằng sinh thái, tạo điều kiện
cho các loài thiên địch của sâu róm thông phát triển (ong mắt đỏ, ong tấm đen, ruồi ba vạch, bọ ngựa…). Ngoài ra Bôvêrin còn
tiêu diệt bọ xít dài hại lúa thường trú ẩn trên rừng thông. Do địa hình rừng
thông khá phức tạp, núi cao, độ dốc lớn, nhiều khe rãnh chia cắt, cộng với tán
rừng thông cao, thảm thực vật, cây bụi dưới tán rừng dày, việc đi lại khó khăn
nên phòng trừ gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tồn tại hạn chế trong phòng trừ,
các chủ rừng chủ yếu sử dụng phun thuốc bằng phun bột, trộn các chế phẩm, thuốc
trừ sâu sinh học với các loại bột phụ gia nhẹ, dùng máy động áp lực cao để phun
thuốc đều lên tán rừng, chọn lúc sáng sớm hoặc chiều mát, lặng gió để phòng trừ.
Một điểm chú ý là khi tiến hành phòng trừ thường mỗi máy phải có từ 2-3 người
thay nhau và mang thuốc đi theo các điểm. Người đi phun thuốc phải tuân thủ nghiêm
túc mặc đồ bảo hộ lao động (quần áo, giày
tất, kính). Trước khi phun thuốc cần thông báo rộng rãi cho nhân dân biết,
khi đi kiểm tra rừng sau khi phun, tuyệt đối không dùng tay hoặc chân trần dẫm
lên sâu đã chết sẽ rất nguy hiểm vì độc tố của sâu có thể gây hoại tử các mô mềm.
Một điểm đáng lưu ý trong phòng trừ sâu róm thông là chọn thời điểm sâu non tuổi
còn nhỏ tiến hành phun thuốc. Đối với các khu rừng có mật độ sâu cao, tán bị ăn
trụi hết thì không cần phải phun thuốc
mà phải chọn các khu rừng có tán lá đang còn xanh để phòng trừ.
Một
phương pháp phòng trừ sâu róm thông khá hữu hiệu là phương pháp vật lý, thường
sử dụng các bẫy đèn để dẫn dụ sâu trưởng thành đến để tiêu diệt, chọn các địa
điểm đặt đèn sao cho ánh sáng của đèn chiếu sáng được nhiều vùng rừng, không đặt
đèn dưới tán rừng hoặc quá sát chân đồi sẽ che khuất độ phát sáng của đèn. Dùng
tấm nilon, chọn địa hình bằng phẳng hoặc cào đất cho bằng rồi trãi tấm nilon
lên, đằn các góc, đổ một ít nước vào, đổ dầu hỏa hoặc cho một ít thuốc trừ sâu
hóa học vào, khi sâu trưởng thành vào đèn rơi vào hố nước thì vớt lên cho vào
túi để chôn lấp. Trong các loại ánh sáng mà sâu trưởng thành sâu róm thông mẫn
cảm nhất đó là ánh sáng của đèn cực tím (tia
tử ngoại, tia UV). Sâu trưởng thành có thể phát hiện ánh đèn cực tím hàng
trăm mét, cần theo dõi thời gian vũ hóa rộ để bẫy đèn (thường sâu vũ hóa rộ khoảng 1 tuần), khi sử dụng đèn cực tím sẽ thu
hút được lượng lớn sâu trưởng thành vào đèn, một điều cần chú ý tại những vùng
bẫy đèn do có lượng lớn sâu trưởng thành bị dẫn dụ bay đến nhưng có thể vẫn còn
một số sâu trưởng thành chưa kịp vào đèn mà đang ở lại trên tán cây thông. Vì vậy,
cần đánh dấu tại các điểm bẫy đèn để theo dõi tình hình diễn biến phát sinh của
sâu hại, khi sâu trưởng thành đẻ trứng cần tiến hành cắt tổ trứng hoặc sử dụng thuốc
trừ sâu sinh học để phòng trừ khi có sâu non xuất hiện ở vùng này, tránh lây
lan sang vùng khác.
Ảnh 5. Nhộng của sâu róm thông
Phương
pháp phòng trừ thủ công cũng được áp dụng khi mật độ sâu thấp, diện tích bị nhiễm
ít, bằng cách bắt sâu non, cắt các ô trứng… đem tiêu hủy. Tuy nhiên, do cây
thông cao, đường kính lớn nên việc leo trèo hoặc dùng kéo cắt cành bắt thủ công
là rất hạn chế.
Ảnh 6. Sâu róm thông bị nhiễm vi khuẩn
Bacillus thuringiensis sau khi phòng trừ bằng thuốc trừ sâu sinh học VBT
Ngoài
ra, biện pháp hóa học cũng có thể sử dụng nhưng không khuyến khích, chỉ tiến
hành phòng trừ khi thực sự cần thiết trên diện hẹp bằng cách bao vây, xử lý các
ổ dịch cục bộ, diện tích nhỏ.
Phan Quang
Tiến
Phòng
TCCB Sở Nông nghiệp và PTNT