Chuyển đổi cơ cấu cơ trồng trên cơ sở sản xuất trồng trọt thông minh với khí hậu
Sản xuất nông nghiệp thông minh với khí hậu là một trong những trọng tâm rất quan trọng và đặc biệt quan trọng với Nghệ An một trong những tỉnh được xác định là chịu tác động rất lớn của BĐKH. Để làm việc đó, chúng ta cần sàng lọc các rủi ro khí hậu, biến đổi khí hậu và kiểm chứng các mô hình nông nghiệp thông minh với khí hậu cần được quan tâm tổ chức thực hiện để tổng kết áp dụng vào thực tiễn là việc làm cần thiết, thiết thực hiện nay.
Kết quả phối hợp với đài Khí tượng thủy văn BTB bước đầu chúng tôi tập hợp được một số kết quả như sau:
Bảng 1: Kết quả tính PET cho khu vực ven biển từ 1991-2020
Kết quả chỉ ra rằng PET trong các tháng 12 đến tháng 1 năm sau thấp nhất, sang tháng 3,4,5 giá trị tăng dần và đạt đỉnh max trong các tháng 6, 7 và giảm dần từ tháng 8 đến tháng 11.
Bảng 2: Lượng mưa trung bình các huyện ven biển Nghệ An từ 1991-2020
Lượng mưa nhiều và xu thế tăng dần tháng 5, 6,7, 8, 9, 10. Trong đó cao điểm và dồn dập giai đoạn này từ các tháng 8, 9, 10 và đạt giá trị max (giai đoạn này lượng mưa chiếm 50-60% của cả năm là 1500-2200mm).
Từ tháng 11 lượng mưa giảm nhanh và duy trì giá trị thấp cho đến tháng 4 năm sau.
Mưa lụt tiểu mãn xuất hiện từ tháng 5 đến tháng 6 (tùy năm), như vậy nếu bố trí trà ngô Hè thu sớm cần quy hoạch ở vùng thoát nước tốt.
Bảng 3: biến động lượng mưa trung bình 1991-2020
Kết quả chỉ ra rằng, lượng mưa trung bình tháng 12 năm trước đến tháng 1, 2 năm sau không đủ cho nhiều loại cây trồng, tỷ trọng lượng mưa tháng/năm cũng chỉ dao động trong khoảng 1,2-2,4%. Do đó khi kết hợp các điều kiện nhiệt độ trung bình tháng và nhiệt độ tối cao, tối thấp để bố trí sản xuất khoai tây cần bố trí trên diện tích có thể tưới tối thiểu mới phát huy năng suất hiệu quả.
Lượng mưa các tháng 3,4,5 trung bình chỉ ra rằng thời vụ này lượng mưa này hoàn toàn phù hợp cho sản xuất nhiều loại cây trồng cạn chịu hạn trong đó có cây vừng.
Do cây vừng chỉ có thời gian sinh trưởng 65-70 ngày vậy nên sau khi thu hoạch vừng thì từ trung tuần tháng năm ở những chân đất thoát nước tốt có thể căn cứ điều kiện đất đủ ẩm sau khi thu hoạch vừng để triển khai sớm ngô hè thu tránh nắng nóng khô hạn trong giai đoạn ngô trổ cờ phun râu nhằm đảm bảo năng suất và hiệu quả.
Bảng 4: Tần suất xuất hiện hạn các tháng 1991-2020
Kết quả tần suất xuất hiện hạn cũng chỉ ra rằng các kết quả nhận định đánh giá ở bảng 2, 3 đã nêu ở trên.
Bảng 5: 28 cơn bão, ATNĐ đổ bộ khu vực BTB giai đoạn 2004-2021
Như vậy trong vòng 17 năm nêu ở trên xuất hiện 47 con bão và ATNĐ ảnh hưởng tới khu vực BTB và các huyện ven biển ở Nghệ An nói riêng.
Kết quả chỉ ra 6% số năm không có xuất hiện ATNĐ ảnh hưởng trực tiếp, 53% mỗi năm có 02 cơn ảnh hưởng, 29% số năm có 3-4 cơn ảnh hưởng và 18% số năm có trên 5 cơn ảnh hưởng. Như vậy các tháng trong mùa mưa, bão rủi ro tạo ra rất lớn cho các cây trồng ngắn ngày và cây hàng năm nói riêng. Như vậy, với cơ cấu sản xuất như đề xuất tính an toàn được nâng lên và sẻ là cơ sở khoa học để nâng cao giá trị lợi nhuận trong sản xuất nông nghiệp đối với vùng đất cát ven biển ở Nghệ An.
Trên cơ sở phân tích số liệu khí tượng thủy văn trong giai đoạn chỉ ra rằng việc áp dựng chuyển đổi cơ cấu thời vụ để chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên vùng đất cát ven biển đối với công thức Lạc Xuân - Vùng Hè thu - Ngô đông thay bằng Khoai tây Xuân - Vừng xuân hè - Ngô hè thu cần được xem xét tính toán để thực hiện.
Qua kết quả điều tra thực tế trên diện tích 2.300ha diện tích này cho thấy kết quả thu được như sau:
1. Chi phí cho 1 sào lạc:
- Giống 10-11 kg lạc vỏ x 45.000 đ/kg = 450.000đ- 495.000đ
- Phân lót trung bình 40-50 kg NPK 3.9.6 = 288-360.000 đ
- Nilon phủ lạc 3,5-3.7 kg x 40.000 kg = 140-148.000đ
- Công làm đất trọn gói (cày + phay + rạch hàng) = 260.000 đồng
- Công gieo (gieo + vùi + phủ nilon) 2x200.000 = 400.000 đồng – nông dân
- Thuốc cỏ 30.000 đ/sào + công phun nông dân (thuê 50.000) = 80.000đ
- Bóc nilon 1/2 công (nông dân tự làm) – thuê 1 công 300.000 đồng (do phun thuốc cỏ
nên công thuê cao hơn) =150.000đ
- Tiền thuốc BVTV: 100.000 đ (2 lần nông dân tự phun – công thuê 50.000đ/bình
bơm) = 200.000đ.
- Công thu hoạch (nhổ + vặt củ) = 2 công x 200.000 = 400.000
- Công phơi: 1 công x 200.000đ = 200.000đ
Tổng chi phí: 2.568.000 đồng – 2693.000 đồng
Thực tế trong sản xuất nông dân chủ động tự làm một phần chi phí mức đầu tư còn: 1348.000đ.
Như vậy, năng suất bình quân 150kg/sào x 27.000đ/kg = 4.050.000đ
Lợi nhuận còn 1.357.000đ/sào tương đương 27,14 triệu/ha.
Tỷ suất lợi nhận/ tiền đầu tư: 50,4% (chưa tính rủi ro)
2. Chi phí 1 sào vừng:
- Giống: 0,4-0,5kg (Sau khi nhổ lạc xong để nguyên nilon vãi vừng) dân tự để giống
- Công tỉa 2-4 công tùy mật độ vừng lên sau gieo x 200.000đ/c = 600.000đ
- Phân bón: Ure 2 lần bón mỗi lần 3-3,5 kg/sào x 10000đ/kg = 70.000-80.000đ
- Công thu hoạch nông dân làm (Cắt + Phơi + sảy hạt)
Tổng chi phí: 680.000đ
Như vậy năng suất bình quân: 35kg x 40.000đ/kg = 1.400.000đ, lợi nhuận
720.000đ tương đương 14.400.000đ/ha.
Tỷ suất lợi nhận/ tiền đầu tư: 105,6% (chưa tính rủi ro)
3. Chi phí 1 sào ngô:
- Giống 1 kg x (120.000đ – 160.000đ) = 120.000đ – 160.000đ
- Phân lót 1 bì 8.10.3 = 200.000đ
- Làm đất (cày + phay + rạch hàng) = 250.000đ
- Ure 12-15 kg x 10000đ/kg = 120.000 - 150.000đ
- Kali 9-10 kg x 12000đ/kg = 108.000 - 120.000đ
- Thuốc cỏ 40-45.000
- Thuốc bvtv 100.000
- Công (gieo + thu hoạch) tự làm
Tổng chi: 1.025.000đ
Như vậy năng suất bình quân: 200kg/sào x 10000đ/kg = 2.000.000đ, lợi nhuận
còn 975.000đ/sào tương đương 18.500.000đ/ha
Tỷ suất lợi nhận/ tiền đầu tư: 95,1% (chưa tính rủi ro)
Tổng lợi nhuận của công thức luân canh trên là: 60,04 triệu/ha/năm.
Công thức trên được nông dân ven biển bố trí như sau: 25/12 đến 15/01 năm sau gieo lạc Xuân. Vụ này sản xuất tương đối an toàn, nhưng sản xuất mức đầu tư lớn, tỷ suất lợi nhuận trên/vốn không cao.
Tiếp theo sau vụ lạc Xuân, bà con gieo vừng Hè vào 20/5-10/6. Vụ sản xuất
này rủi ro rất lớn, vài 3 vụ mới có vụ thành công do vừng nhưng năm gặp mưa lớn
giai đoạn sinh trưởng sinh thực sau đó nắng to nên dễ chết đột ngột. Không nhưng
vậy, giai đoạn sắp thu hoạch cũng thường gặp rủi ra lớn thậm chí mất trắng do mưa lũ
những năm đến sớm.
Sau thu hoạch vừng Hè thu, bà con tiến hành gieo trỉa ngô đông lịch thời vụ bố
trí 15/8-10/9. Giai đoạn cây con hoặc ngô mới gieo thường gặp mưa lớn (vì trọng tâm
mùa mưa) nên ngô nhẹ thì mất phân sinh trưởng phát triển kém, còi cọc, nặng thì mất
trắng phải gieo lại, thậm chí nhiều lần nên đây cũng là vụ sản xuất may rủi rất lớn.
Qua tổng kết thực tiễn như trên, cơ cấu thời vụ theo tập quán lâu đời rủi ro trong sản xuất là rất lớn. Chính vì vậy, để có cơ sở thực tiễn mạnh dạn tổng kết chuyển đổi sau khi xem xét tổng kết cơ sở lý luận chúng tôi xin đề xuất cơ cấu thời
vụ như sau: 5-15/12 tổ chức sản xuất khoai tây Xuân (liên kết với nhà máy bao tiêu
sản phẩm) đây là vụ sản xuất an toàn chắc ăn + 25/2 - 05/3 gieo trỉa vừng vụ Xuân hè
đây là vụ sản xuất an toàn chắc ăn, năng suất tăng trên 20% + trong tháng 5 thời tiết đất đủ ẩm gieo trỉa ngô thu đông (đây là vụ rủi ro thấp hơn so vụ sản xuất ngô đông).
Khoai tây, chi phí 60 triệu/ha/vụ. tổng thu dự kiến 18-20 tân/ha x 7,4 tr/tấn = 148 tr. Dự kiến lãi 88 triệu. Vừng chi phí 18 tr/ha, thu 850kg/ha x 40.000đ/kg = 34 tr. Lãi dự kiến 16 triệu. Ngô chi phí 20,5 tr, thu 200kg/sào x 10000đ/kg = 2.000.000đ, lợi nhuận còn 975.000đ/sào tương đương 18.500.000đ/ha.
Dự kiến tổng lợi nhuận cả 3 công thức/năm là: 122,5 triệu/ha.
Tóm lại, trên cơ sở lý luận như trên, việc đầu tư mô hình triển khai chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên nền tảng chuyển đổi cơ cấu thời vụ thích ứng biến đổi khí hậu cho vùng đất cát ven biển là việc làm cần thiết để tổng kết đánh giá, tuyên truyền nhân rộng vào sản xuất.
Nguồn tin:
Th.s Phan Duy Hải, Th.s Lê Hữu Huấn - Chi cục TT&BVTV